ví dụ về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Bên cấp phép có thể chấm dứt Thỏa thuận này và giấy phép được cấp trong trường hợp Bên cấp phép vi phạm bất kỳ quy định, điều khoản, điều kiện hoặc giới hạn nào được quy định trong Thỏa thuận này, bao gồm nhưng không giới hạn các giới hạn giấy phép được Tuy nhiên, "Mỹ nên xem xét khả năng tạo ra một động lực mới trong các cuộc đàm phán thương mại, ví như tạo ra một thời hạn chặt chẽ cho việc đạt được một thoả thuận", ông Thomas nói thêm, đồng thời cũng đưa ví dụ về các dự luật của quốc hội sẽ vô hiệu Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp là việc thống nhất cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây: 1. Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng. 2. Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể. 3. Áp dụng công thức tính giá chung. 4. Duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan. 5. VÀ VIỆT NAM. 35. 2.1. Thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng lao động ở một số nước. 35. 2.1.1. Quy định của EU về thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng. lao động . 35. 2.1.2. Quy định của Hoa Kỳ về thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp. đồng lao Trong phạm vi Thỏa Thuận này, Thông Tin Mật sẽ bao gồm những thông tin có nguồn gốc từ Thông Tin Mật. lao động và người sử dụng lao động để bảo đảm quyền được giữ bí mật kinh doanh và hạn chế cạnh tranh cho người sử dụng lao động. Vì vậy, để bí mật kinh Site De Rencontre Entre Veufs Et Veuves. Quá trình cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực để đạt được lợi thế hơn so với các đối thủ. Tuy nhiên, khi phải đối mặt với cạnh tranh, không ít các doanh nghiệp đã nhìn nhận cạnh tranh như một mối hiểm họa đối với khả năng thu lợi nhuận cũng như sự tồn vong của doanh nghiệp. Vì vậy, thay vì nỗ lực điều chỉnh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới, các doanh nghiệp này đã chọn một con đường dễ dàng hơn là dàn xếp, thỏa thuận với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường về giá cả, sản xuất, thị trường, khách hàng... nhằm duy trì thị phần và lợi nhuận kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Hậu quả tất yếu của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự độc quyền hóa thị trường, theo đó các vấn đề quan trọng của thị trường như giá cả, sản lượng, khách hàng,...không còn tuân thủ theo quy luật thị trường mà bị khống chế bởi một nhóm các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. 1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Dưới góc độ pháp lý, có thể hiểu thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí của từ hai chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh”. Thay vào đó, Luật Canh tranh 2004 liệt kê các thỏa thuận mà nhà làm luật nhận định rằng thỏa thuận đó và chỉ các thỏa thuận đó mới là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Điều 8. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định pháp luật Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau Thứ nhất, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp độc lập. Khái niệm doanh nghiệp theo Điều 2 Luật Cạnh tranh bao gồm cả tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động kinh doanh và hiệp hội ngành nghề. Các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải là những doanh nghiệp “hoạt động độc lập với nhau và hoàn toàn không phụ thuộc nhau về tài chính”[1]. Như vậy, thỏa thuận giữa những đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc trong một công ty, hay việc công ty con tuân theo các quyết định của công ty mẹ,… không được coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể giữa các doanh nghiệp là đối thủ của nhau hoặc có mối liên hệ với nhau trong cùng một chuỗi sản xuất hay cung ứng sản phẩm, dịch vụ. Thứ hai, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cũng như các thỏa thuận khác, cần phải có sự thống nhất về ý chí giữa các bên thỏa thuận. Đây là sự thống nhất ý chí về việc cùng hành động gây hạn chế cạnh tranh. Do đó, thỏa thuận này thường là kết quả của quá trình trực tiếp đàm phán, thương lượng giữa các bên tham gia có liên quan đến một hoặc một số nội dụng nào đó của thị trường. Có trường hợp các bên gián tiếp đạt được một thỏa thuận thỏa thuận ngầm thông qua các nghị quyết, quyết định hay hành động chung của Hiệp hội mà các bên là thành viên; hoặc biểu hiện dưới dạng các cam kết tuân thủ hoặc cam kết đáp ứng yêu cầu do một hoặc một số bên đặt ra. Tuy nhiên, các hành vi giống nhau của doanh nghiệp chưa đủ chứng minh có thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Chỉ có thể chứng minh đó là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nếu có đủ bằng chứng kết luận giữa họ đã tồn tại các thỏa thuận chính thức hoặc ngầm về vấn đề ra, cần lưu ý rằng sự thống nhất về mục đích của các bên không phải là điều kiện để xác định một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thứ ba, hậu quả của hạn chế cạnh tranh là làm giảm sức ép cạnh tranh, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị thể, đó là việc làm giảm hoặc xóa bỏ vị trí đối thủ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tham gia. Mặt khác, các doanh nghiệp khi tham gia thỏa thuận sẽ hình thành một nhóm doanh nghiệp có sức mạnh thị trường lớn và việc thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh có thể gây thiệt hại trực tiếp cho khách hàng và xã hội. Tuy nhiên, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ đòi hỏi đảm bảo các yếu tố cấu thành về mặt hình thức. Khi xác định hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không cần xét đến hậu quả thực tế mà chỉ cần xác định hậu quả về mặt hình thức. Hậu quả thực tế chỉ có ý nghĩa trong việc xác định mức độ trách nhiệm pháp lý hay mức phạt. Pháp luật của Liên minh Châu Âu và nhiều quốc gia khác có sự phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gồm thỏa thuận theo chiều dọc và thỏa thuận theo chiều ngang. Trong đó - Thỏa thuận theo chiều ngang là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp cùng ngành hàng hoạt động trên thị trường liên quan. Nói cách khác, thỏa thuận theo chiều ngang thường diễn ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ của nhau. Trong đó, nó bao gồm cả những thỏa thuận gây nguy hại nhất cho cạnh tranh và bị mặc nhiên cấm. - Thỏa thuận theo chiều dọc là các thỏa thuận liên quan đến việc bán lại những sản phẩm từ nhà sản xuất hay nhà cung cấp. Thỏa thuận theo chiều dọc diễn ra giữa các doanh nghiệp bổ trợ lẫn nhau và có thể là khách hàng của nhau. Thỏa thuận này không tạo ra khả năng khống chế thị trường. [2] Pháp luật Việt Nam không có sự phân biệt rõ ràng thỏa thuận theo chiều ngang hay chiều dọc, mà chỉ liệt kê các trường hợp có thể bị cấm tại Điều 8 Luật Cạnh tranh và các điều kiện xác định trường hợp thỏa thuận bị cấm tại Điều 9 Luật này. 3. Các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định tại Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004, cụ thể bao gồm 1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; 2. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ; 3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ; 4. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; 5. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; 6. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; 7. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận; 8. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.” 4. Hậu quả pháp lý của các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối Theo khoản 1 Điều 9 Luật Cạnh tranh Việt Nam thì có 3 loại thỏa thuận được nêu tại các khoản 6, 7, 8 Điều 8 là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối - Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh khoản 6 Điều 8; - Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận Khoản 7 Điều 8; - Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ Khoản 8 Điều 8. Theo cách tiếp cận của Luật Cạnh tranh Việt Nam, ba loại thỏa thuận này bị cấm tuyệt đối và không được miễn trừ bởi chúng luôn mang tính chất hạn chế cạnh tranh mà không có bất cứ một cơ sở nào để có thể biện hộ về hiệu quả của chúng đối với thị trường không thể áp dụng nguyên tắc lập luận hợp lý. Do vậy, việc xác định hành vi thỏa thuận bị cấm trong các trường hợp này không đòi hỏi phải chứng minh về sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Thỏa thuận hạn chế bị cấm có điều kiện và việc hưởng miễn trừ Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khác ngoài 3 loại thỏa thuận liệt kê tại khoản 6, 7, 8 Điều 8 là thỏa thuận hạn chế có điều kiện. Cụ thể theo Khoản 2 Điều 9“Cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.” Như vậy, bên cạnh việ tồn tại hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc khoản 1 đến khoản 5 Điều 8 Luật cạnh tranh, các bên tham gia thỏa thuận phải thỏa mãn yêu cầu “có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên” thì thỏa thuận đó mới bị cấm. Theo quan điểm của nhà làm luật Việt Nam Thị phần là cơ sở để xác định khả năng chi phối của doanh nghiệp đối với thị trường. Đồng thời, với mức thị phần trên thị trường liên quan từ 30% trở lên, doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp đã có khả năng tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua. Khi đó, pháp luật mới phải can thiệp bởi họ có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.[3]Quy định này có phần tương tự “nguyên tắc tối thiểu” de minimis principles của pháp luật Liên minh Châu Âu.[4] Các trường hợp miễn trừ Các trường hợp miễn trừ chỉ được áp dụng với nhóm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có điều kiện. Điều kiện miễn trừ được quy định tại Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh. Cụ thể các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh từ khoản 1 tới khoản 5 Điều 8 sẽ được miễn trừ nếu nhằm mục đích giảm giá thành, có lợi cho người tiêu dùng, và đáp ứng một trong các điều kiện dưới đây “a Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh; b Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ; c Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; d Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá; đ Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; e Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.” Các trường hợp miễn trừ được xây dựng dựa trên nguyên tắc lập luận hợp lý rule of reason theo thông lệ quốc tế. Theo đó, một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vẫn có thể được thực hiện nếu xét thấy lợi ích đối với nền kinh tế và người tiêu dùng lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, theo quan điểm trong Giáo trình Luật cạnh tranh của Trường Đại học Luật Hà Nội, pháp luật Việt Nam hiện nay còn thiếu 2 điều kiện quan trọng để hưởng miễn trừ là i việc thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là cần thiết và không thể tránh khỏi để thực hiện các mục tiêu tại Điều 10; ii việc thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không tạo cho các doanh nghiệp khả năng loại bỏ một cách đáng kể đối với hàng hóa và dịch vụ có liên quan.[5]Bởi lẽ, rủi ro và thiệt hại trong tương lai lâu dài mà thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không đáp ứng hai điều kiện nêu trên mang lại có thể sẽ lớn hơn rất nhiều lợi ích nó mang lại hiện tại. Ngoài ra, quan điểm này cũng bổ sung thêm việc nên có một thời hạn đối với việc thực hiện các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được miễn trừ này. Ngày 15/9/2008 tại Resort Sài Gòn – Mũi Né, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam HHBHVN đã chủ trì tổ chức Hội nghị thường niên các Tổng giám đốc phi nhân thọ lần thứ 6 CEO PNT 6. Tại CEO PNT 6, 15 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ DNBH đã ký thỏa thuận hợp tác trong các lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm tàu biển và bảo hiểm xe cơ giới. Sau đó, có thêm bốn DNBH cũng muốn tham gia ký kết, nâng tổng số doanh nghiệp tham gia lên 19 doanh nghiệp, bao gồm 1. Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam ABIC; 2. Công ty cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng Bảo Long; 3. Tổng công ty cổ phần Bảo Minh Bảo Minh; 4. Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm châu Á Ngân hàng Công thương Bảo Ngân; 5. Công ty cổ phần Bảo hiểm Bảo Tín Bảo Tín; 6. Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt Bảo Việt; 7. Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIC; 8. Công ty cổ phần Bảo hiểm Quân đội MIC; 9. Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex PJICO; 10. Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện PTI; 11. Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí PVI; 12. Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm SAMSUNG – VINA Samsung – Vina; 13. Công ty cổ phần Bảo hiểm Toàn cầu Toàn Cầu; 14. Công ty cổ phần Bảo hiểm Viễn Đông VASS; 15. Công ty liên doanh Bảo hiểm Quốc tế Việt Nam VIA; 16. Công ty cổ phần Bảo hiểm AAA AAA; 17. Công ty TNHH Bảo hiểm FUBON Việt Nam FUBON; 18. Công ty TNHH Tổng hợp Groupama Groupama; 19. Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng không Việt Nam VNI. Các bản thỏa thuận được 19 DNBH ký kết bao gồm Bốn bản thỏa thuận hợp tác giữa các DNBH trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa; trong lĩnh vực bảo hiểm tàu biển; bảo hiểm xe cơ giới; và Điều khoản biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô – tô. Các bản thỏa thuận được thực hiện từ ngày 01/10/2008. Thị trường mà 19 DNBH hướng tới trong các bản thỏa thuận chính là thị trường có phạm vi toàn quốc và ngay ở thời điểm ký kết, thị phần của 19 DNBH này là 99,79%. Các bản thỏa thuận này đều có quy định về chế tài cụ thể, thể hiện ý chí tự nguyện của các bên tham gia. Theo các “khổ chủ”, nguyên nhân của việc rủ nhau ký kết các bản thỏa thuận là do các doanh nghiệp này đang phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh gay gắt, chủ yếu thông qua các chính sách hạ phí bảo hiểm, trả phí hoa hồng và tăng chi phí hỗ trợ đại lý… Ngày 18/11/2008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh ra Quyết định số 93/QĐ – QLCT về việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Ngày 28/11/2008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh ra Quyết định số 99/QĐ – QLCT về việc việc điều tra chính thức vụ việc cạnh tranh đối với 19 DNBH. Ngày 02 tháng 10 năm 2009, Cục Quản lý cạnh tranh chuyển Hồ sơ vụ việc KNCT-HCCT-0009 đến Hội đồng Cạnh tranh. Ngày 15 tháng 01 năm 2010, Hội đồng Xử lý vụ việc Cạnh tranh ra Quyết định số 02/QĐ-HĐXL về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Ngày 29 tháng 4 năm 2010, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh có Kết luận điều tra bổ sung vụ việc KNCT-HCCT-0009 chuyển đến Hội đồng Cạnh tranh. Hội đồng Xử lý vụ việc Cạnh tranh đã quyết định mở Phiên điều trần công khai từ ngày 27 tháng 7 năm 2010 để xử lý vụ việc cạnh tranh. Tại Phiên điều trần, Hội đồng đã xác định thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ Xác định thị trường liên quan và thị phần của 19 doanh nghiệp bảo hiểm a. Xác định thị trường liên quan Thị trường sản phẩm liên quan - Khả năng thay thế về cầu Trên thị trường có nhiều công ty cùng cung cấp một loại hàng hóa đó là bảo hiểm vật chất xe ô tô và các sản phẩm của các công ty đó đều là bảo hiểm, cùng nhằm mục đích bảo hiểm cho đối tượng đó là ô tô, sự khác biệt về giá cả đối với loại sản phẩm bảo hiểm này của mỗi công ty là không lớn và người tiêu dùng có thể mua sản phẩm bảo hiểm này trên thị trường bằng một cách không quá khó khăn. - Khả năng thay thế về cung trong việc kinh doanh bảo hiểm, một công ty bảo hiểm có thể phân thành nhiều loại bảo hiểm để bán phụ thuộc vào nhu cầu và mục đích của khách hàng. Mặc dù từ góc độ của khách hàng thì các loại bảo hiểm này là khác nhau và không thể thay thế cho nhau do chúng có đặc tính sử dụng và mục đích sử dụng là khác nhau nhưng do chúng cùng được một công ty bảo hiểm bán và cùng có cùng tính chất bảo hiểm. Như vậy từ việc phân tích khả năng thay thế về cung và khả năng thay thế về cầu, có thể xác định thị trường sản phẩm liên quan trong vụ việc ở đây đó là “Thị trường kinh doanh bảo hiểm vật chất cho xe ô tô”. Thị trường địa lý liên quan Thị trường địa lý liên quan là “một khu vực địa lý cụ thể nơi các doanh nghiệp có liên quan tham gia bán hoặc mua hàng hóa hoặc dịch vụ trong những điều kiện cạnh tranh tương tự và các điều kiện cạnh tranh tại khu vực này phải khác biệt đáng kể so với các điều kiện cạnh tranh tại các khu vực lân cận”[6]. Như vậy, theo định nghĩa trên, có thể xác định thị trường địa lý liên quan ở vụ việc này đó là “tại Việt Nam”. Qua phân tích về thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan, có thể xác định thị trường liên quan trong vụ việc đó là “Thị trường kinh doanh bảo hiểm vật chất cho xe ô tô tại Việt Nam”. Theo quy định tại Điều 3 Luật Cạnh tranh, thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hóa, dịch vụ là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu bán ra của tất cả doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan, hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mùa vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm. Thị phần kết hợp là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế. Từ đó, có thể xác định, thị phần kết hợp của thỏa thuận này là tổng thị phần của 19 DNBH trên thị trường kinh doanh bảo hiểm vật chất cho xe ô tô tại Việt Nam. Cụ thể, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã xác định thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ Các thỏa thuận của 19 doanh nghiệp bảo hiểm này có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không? Xem xét hành vi thỏa thuận của 19 doanh nghiệp bảo hiểm này có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không, chúng ta sẽ cùng phân tích những đặc điểm của hành vi thỏa thuận này của 19 doanh nghiệp bảo hiểm Thứ nhất, về chủ thể tham gia là 19 doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn độc lập trên thị trường, đều là các doanh nghiệp bảo hiểm khá nổi doanh nghiệp này tham gia thỏa thuận hoạt động độc lập với nhau và hoàn toàn không phụ thuộc với nhau về tài chính. Thứ hai, sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận được thể hiện một cách công khai đó là thỏa thuận trong khuôn khổ tổ chức Hội nghị thường niên các Tổng giám đốc phi nhân thọ lần thứ 6 CEO PNT 6 và các thỏa thuận này được thông cáo báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng. Các doanh nghiệp này có sự thống nhất ý chí cùng hành động để gây hạn chế cạnh tranh đó làkhông hạ phí, đồng thời thống nhất áp dụng mức phí 1,56% thu của khách mua bảo hiểm xe ôtô[7]. Đương nhiên, có thể hiểu rằng việc quyết định thỏa thuận nói trên đã được các đơn vị suy tính, nghiên cứu kỹ và nhằm tránh đối đầu trực tiếp trong hoạt động thu hút khách hàng với nhau, đồng thời tạo ra một mặt bằng về phí của riêng nhóm. Từ đó, 19 doanh nghiệp này cũng có cơ hội lớn hơn, mang tính áp đảo và có điều kiện thuận lợi hơn để có được một thị phần lớn hơn trong tổng dung lượng thị trường bảo hiểm xe ôtô cả nước, đồng thời hạn chế cạnh tranh đối với những doanh nghiệp khác. Thứ ba, hậu quả của thỏa thuận này có thể làm giảm sức ép cạnh tranh, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Thỏa thuận này gây ra cho thị trường sự xóa bỏ cạnh tranh, các đối thủ trên thị trường sẽ không còn cạnh tranh nữa, bởi vì 19 doanh nghiệp bảo hiểm này đều là những doanh nghiệp bảo hiểm lớn và có thị phần kết hợp lên tới 99,79% và những doanh nghiệp này có lượng khách hàng rất hùng hậu và doanh thu tương đối lớn[8]. Hậu quả của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia việc thỏa thuận, cụ thể là 6 doanh nghiệp còn lại trong thị trường bảo hiểm chỉ chiếm 0,21% thị phần, một con số rất nhỏ. Từ những phân tích về đặc điểm hành vi thỏa thuận của 19 doanh nghiệp bảo hiểm, chúng ta có thể nhận định đây chính là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật cạnh tranh năm 2004. Cụ thể hành vi này chính là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bằng cách ấn định giá hàng hóa dịch vụ một cách gián tiếp theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật cạnh tranh năm 2004. Các thỏa thuận này có thuộc trường hợp được miễn trừ theo pháp luật cạnh tranh hay không? Phạm vi các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được miễn trừ bao gồm 5 dạng hành vi được xem xét cấm theo nguyên tắc hợp lý, nghĩa là bị cấm khi thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các bên tham gia từ 30% trở lên. Cụ thể, theo Điều 10 Luật cạnh tranh 2004, chỉ những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại khoản 2, Điều 9 mới thuộc phạm vi các thỏa thuận được xem xét miễn trừ có thời hạn. Các thỏa thuận nêu trên được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng - Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh; - Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ; - Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; - Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá; - Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; - Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để được hưởng miễn trừ, các bên tham gia thỏa thuận phải thực hiện thủ tục đề nghị hưởng miễn trừ quy định từ Điều 25 đến Điều 38 Luật Cạnh tranh. Từ vụ việc, có thể thấy, thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ vượt quá ngưỡng 30% và thỏa thuận này là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bằng cách ấn định giá hàng hóa dịch vụ một cách gián tiếp theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh năm 2004. Do đó, thỏa thuận này bị cấm theo Khoản 2 Điều 9 Luật cạnh tranh 2004. Đồng thời, thỏa thuận này cũng không đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 10, do đó,theo quy định của pháp luật cạnh tranh, hành vi thỏa thuận về biểu phí cũng như công thức tính phí bảo hiểm với xe ô tô của 19 doanh nghiệp bảo hiểm không được miễn trừ. Tác động đến thị trường bảo hiểm và đối với đối tượng mua bảo hiểm bởi các thỏa thuận này như thế nào?[9] Trong số các hành vi bị cấm thì hành vi hạn chế cạnh tranh mà các doanh nghiệp gây ra trên thị trường là nghiêm trọng nhất, theo quy định của Luật Cạnh tranh, thường bị xử phạt rất nặng. “Theo nguyên tắc nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải cạnh tranh để tạo ra cơ hội cho người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm phù hợp với yêu cầu của các Doanh nghiệp bắt tay nhau, hạn chế cạnh tranh thì sẽ bị xử phạt để trả lại cho thị trường sự minh bạch”[10]. Đối với vụ việc 19 doanh nghiệp bảo hiểm trên, qua tìm hiểu, một số tác động liên quan của vụ việc đến thị trường bảo hiểm và đối tượng mua bảo hiểm được khái quát như sau Mức độ gây hạn chế cạnh tranh Xét trên khía cạnh các doanh nghiệp bảo hiểm 19 doanh nghiệp bảo hiểm ký kết thoả thuận đã triệt tiêu cạnh tranh giữa 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia ký kết; Xét khía cạnh người mua bảo hiểm tạo mặt bằng chung phí bảo hiểm xe cơ giới làm hạn chế quyền lựa chọn của người mua bảo hiểm. Khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng khácCó tới 19/25 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia ký kết chiếm tới 99,79% thị trường dịch vụ bảo hiểm vật chất ô tô trên toàn quốc nên gây hạn chế đáng kể. Thời gian thực hiện vi phạmChỉ hơn 50 ngày, giữa các doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành không đồng đều vì vậy không phải là yếu tố quan trọng cần xem xét mức độ vi phạm. Mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm19 doanh nghiệp bảo hiểm chiếm 99,79% thị phần, thời gian vi phạm chưa dài, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chấm dứt thực hiện thoả thuận nên mức độ thiệt hại cho người mua bảo hiểm đã được giảm thiểu. Khoản lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạmDo thời gian thực hiện thoả thuận chưa dài nên khoản lợi nhuận 19 doanh nghiệp bảo hiểm thu được từ thống nhất thoả thuận không phản ánh chính xác tác động của hành vi và không là yếu tố quan trọng khi xem xét mức độ xử lý. Đối với hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh Tại Phiên điều trần, Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh nhận định hành vi ký bản thỏa thuận của 19 doanh nghiệp là hành vi quy định tại khoản Điều 8 Luật Cạnh tranh về thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián đồng đã xác định thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ cạnh đó, 19 doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn độc lập trên thị trường, đều là các doanh nghiệp bảo hiểm khá nổi doanh nghiệp này tham gia thỏa thuận hoạt động độc lập với nhau và hoàn toàn không phụ thuộc với nhau về tài chính. Như vậy, bằng việc ký kết thỏa thuận, 19 doanh nghiệp đã triệt tiêu cạnh tranh về mức phí bảo hiểm trên hầu như toàn bộ thị trường liên quan. Bên bị điều tra đã vi phạm Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh về các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm. Ở đây nhóm chúng em đồng tình với những nhận định của Hội đồng xử lý vụ việc canh tranh, bởi Theo quy định tại Điều 9 Luật Cạnh tranh về các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm “1. Cấm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 6, 7 và 8 Điều 8 của Luật này. 2. Cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.” Ở đây, 19 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đã có hành vi vi phạm theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Theo Điều 14 Nghị định 116/2005/NĐ – CP thì bản chất thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp là việc thống nhất cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây +Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng; + Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể; +Áp dụng công thức tính giá chung; +Duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan; + Không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất; +Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng; +Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận; +Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu. Trong vụ việc này thì 19 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đã cùng nhau ký kết Bốn bản thỏa thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa; trong lĩnh vực bảo hiểm tàu biển; bảo hiểm xe cơ giới; và Điều khoản biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô-tô và các bản thỏa thuận được thực hiện từ ngày 1-10-2008. Trong tất cả các bản thỏa thuận này đều có quy định về chế tài cụ thể nếu các bên vi phạm, thể hiện ý chí tự nguyện của các bên tham gia. Cùng với đó thì Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh cũng đã xác định thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ đã vượt quá 30% theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh. Từ các dẫn trên chúng ta hoàn toàn có căn cứ cho rằng 19 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đã có hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp mà Luật Cạnh tranh cấm. Đối với mức xử phạt mà Hội đồng cạnh tranh đã tuyên bố áp dụng đối với 19 Doanh nghiệp bảo hiểm. Ngày 29 tháng 7 năm 2010, Hội đồng Cạnh tranh đã tuyên bố quyết định phạt tiền các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận với tổng số tiền phạt và tiền phí là đồng. Theo quan điểm của nhóm thì mức xử phạt như vậy là còn nhẹ bởi Xét về hậu quả 19 doanh nghiệp bảo hiểm này đều là những doanh nghiệp bảo hiểm lớn và có thị phần kết hợp lên tới 99,79% và những doanh nghiệp này có lượng khách hàng rất hùng hậu và doanh thu tương đối lớn[11]. Hậu quả của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia việc thỏa thuận, cụ thể là 6 doanh nghiệp còn lại trong thị trường bảo hiểm chỉ chiếm 0,21% thị phần, một con số rất nhỏ. Cục quản lý cạnh tranh đề xuất mức xử phạt 0,1% lợi nhuận năm liền trước của các DN, nhưng hội đồng lại quyết định mức phạt 0,025%. Có thể thấy mức phạt này là quá nhẹ bởi Luật cạnh tranh cho phép xử phạt từ 5% - 10%. Điều 8 Nghị định 71/2014 quy định Hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp Phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp là các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên đối với hành vi thỏa thuận áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng. III. Một số hạn chế và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi thỏa thuậnhạn chế cạnh tranh 1. Một số hạn chế Thông qua tranh chấp trong vụ việc hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của 19 công ty bảo hiểm có thể khẳng định bên cạnh một số những thành tựu đã đã đạt được thì các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vẫn còn nhiều những bất cập, khó khăn khi đưa vào thực tế áp dụng, chưa thực sự điều chỉnh được hết những vấn đề phát sinh trong thực tế. Cụ thể Thứ nhất, tuy đã có văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói chung và hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp và gián tiếp nói riêng là nghị định 116/2005/NĐ-CP nhưng nhìn chung vẫn còn những quy định chưa cụ thể và chi tiết. Điều 8 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định về các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, ngoài việc liệt kê 8 hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cụ thể và Điều 9 quy định các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm một cách nghiêm ngặt. Lẽ ra đây là một quy định chặt chẽ nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng luật được linh hoạt. Thế nhưng quy định này ngay lập tức bị lỏng lẻo và khó áp dụng khi có các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm quy định tại điều 10 Luật cạnh tranh 2004. Quy định các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm nhưng lại không quy định cụ thể, chi tiết về mức độ thực hiện các điều kiện nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng của các doanh nghiệp và cơ quan chịu trách nhiệm giám sát, giám định việc thực hiện của các doanh vậy dẫn đến việc áp dụng luật còn gặp rất nhiều khó khăn và gây tranh cãi. Thứ hai,hành vi thỏa thuận ấn định giá hang hóa, dịch vụ một cách trực tiếp và gián tiếp mặc dù được quy định trong Luật Cạnh tranh, nhưng nội dung của nó còn chung chung, vẫn chưa được hướng dẫn một cách triệt để, tính khả thi không cao và chưa thống nhất. Thứ ba, pháp luật cạnh tranh và các văn bản có liên quan khác đều quy định về cách thức biểu hiện của của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranhđược đưa ra dưới dạng liệt kê, vì vậy các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranhđược đưa ra chưa đầy đủ. Điều 8 Luật Cạnh tranh năm 2004 đã liệt kê các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như Thỏa thuận ấn định giá hang hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hang hóa, dịch vụ; Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp các điều kiện ký kết hợp đồng mua bán hang hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không lien quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; Thỏa thuận ngăn cản, kèm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận; Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên bên cạnh loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thông thường này, trên thực tế còn tồn tại nhiều dạng hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khác đang tồn tại hoặc là sẽ xuất hiện trong tương lai. 2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Thứ nhất,cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết các quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 về các hành vithỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong đó, đối với hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tuy đã được quy định chi tiết hơn trong Nghị định 116/2005/NĐ – CP nhưng nên được giải thích chi tiết, đưa ra định nghĩa cụ thể cho mỗi loại hành vi. Thứ hai, đối với các trường hợp miễn trừ đối cới thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm cần phải quy định một cách chi tiết, cụ thể rõ rang hơn trong quy định tại điều 10 Luật Cạnh tranh và trong văn bản hướng dẫn của Luật Cạnh tranh là nghị định 116/2005/NĐ – CP. Bởi nếu không quy định cụ thể và chặt chẽ thì quy định này dễ trở thành lỗ hổng, khe hở để các doanh nghiệp tìm cách lách luật, trồn tránh nghĩa vụ khi có hành vi hạn chế cạnh tranh. Vì vậy cần phải quy định rõ mức độ của doanh nghiệp khi thực hiện các điều kiện nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dung cũng như quy định cơ quan giám định mức độ thực hiện điều kiện này của doanh nghiệp. Thứ ba, mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm cụ thể như Hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói riêng và các hành vi khác như lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền; tập trung kinh tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định mức tiền phạt dựa trên hai yếu tố là số % được quy định đối với từng hành vi vi phạm và tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Việc quy định mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật trong hiện tại dựa trên cơ sở mức doanh thu của đối tượng vi phạm đã thực hiện trong quá khứ, quy định như vậy không phản ảnh đúng mức trách nhiệm pháp lý phải chịu tương xứng với tính chất, mức độ hành vi vi phạm mà nguyên tắc đó chính là một trong những nguyên tắc cơ bản của việc xử lý vi phạm hành chính . Nội dung này cần được nghiên cứu, quy định lại cho phù hợp theo hướng dựa trên hậu quả gây ra do hành vi vi phạm phạm luật của đối tượng vi phạm. Thứ tư, cũng cần phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức là công tác phát hiện và chống lại hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, xây dựng các bộ máy đầy đủ về lực lượng và cơ sở vật chất thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện kiểm soát, kiểm toán nội bộ nhằm phòng chống các biểu hiện tiêu cực trong quá trình hoạt động. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần thường xuyên theo sát diễn biến thị trường, tăng cường kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm khắc các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói chung và hành vi thỏa thuận ấn định giá hang hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nói riêng một cách thận trọng, khách quan. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội thì các dạng thức kinh doanh của doanh nghiệp cũng ngày càng trở nên đa dạng, phong phú, theo đó hành vi của doanh nghiệp cũng có xu hướng biến đổi không ngừng nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận, đặc biệt trong các môi trường cạnh tranh khốc liệt. Do đó, các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng ngày càng được doanh nghiệp biến hóa nhằm đối phó với các cơ quan cạnh tranh. Vậy nên không chỉ cần phải hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, mà các cơ quan cạnh tranh Việt Nam cần phải có những biện pháp thực thi hiệu quả để thực sự đưa Luật Cạnh tranh đi vào cuộc sống, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh cũng như văn hóa cạnh tranh của doanh nghiệp. [1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Cạnh tranh, Nxb. CAND, Hà Nội, 2014, [2] Theo Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Cạnh tranh, Nxb. CAND, Hà Nội, 2014, tr. 132. [4] Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật cạnh tranh, sđd [5] Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật cạnh tranh, sđd [6] Giáo trình Luật cạnh tranh- Trường ĐH Luật Hà Nội- NXB CAND năm 2016- Trang 76, 77 [7] Số liệu mức biểu phí xem [8] Ví dụ Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam PVI vào năm 2008 có mức doanh thu đạt tỷ đồng, là một mức doanh thu khá lớn so với thời bấy giờ. Số liệu xem tại [9] Tham khảo nguồn [10] Trích lời Ông Bạch Văn Mừng, Cục trưởng Cục Quản lý Cạnh tranh năm 2010 [11] Ví dụ Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam PVI vào năm 2008 có mức doanh thu đạt tỷ đồng, là một mức doanh thu khá lớn so với thời bấy giờ. Số liệu xem tại Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là gì? Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm Về vấn đề này, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT giải đáp như sau 1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là gì? Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018 quy định thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi thỏa thuận giữa các bên dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. 2. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định tại Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018, bao gồm - Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. - Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. - Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. - Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. - Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh. - Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận. - Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư. - Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. - Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận. - Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận. - Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. 3. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm được quy định tại Điều 12 Luật Cạnh tranh 2018 bao gồm 1 Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sau giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan + Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. + Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. + Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. 2 Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sau giữa các doanh nghiệp; + Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. + Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh. + Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận. 3 Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường + Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư. + Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. + Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận. + Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận. + Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. 4 Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định, khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường + Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. + Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. + Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. + Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư. + Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. + Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận. + Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận. + Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. Diễm My Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email info Bài viết đăng trên Đặc San Thông tin Khoa học pháp lý của Bộ Tư Pháp số 3/2017 - Chuyên đề Pháp luật Cạnh tranh Kinh nghiệm Quốc tế và vấn đề hoàn thiện Luật Cạnh tranh của Việt Nam THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH TS. Nguyễn Anh Tuấn[1] 1. Dẫn nhập Như đã phân tích, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường tạo ra cho các doanh nghiệp áp lực giảm giá thành, cải tiến chất lượng và đa dạng hóa hàng hóa, dịch vụ mà mình cung cấp. Để giảm áp lực cạnh tranh và gia tăng lợi nhuận ngắn hạn, các doanh nghiệp có thể tìm cách “câu kết” collude với nhau. Từ góc độ kinh tế, “câu kết” được hiểu là “các đối thủ cạnh tranh bằng cách thức nào đó thống nhất về giá bán hoặc mức sản lượng cung ứng hoặc cả hai.”[2] Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp có thể câu kết với nhau thông qua xác lập thỏa thuận để ấn định giá cả hoặc sản lượng như trường hợp đã xảy ra ở Việt Nam khi 19 doanh nghiệp bảo hiểm cùng nhau ký Bản Thỏa thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới và Điều khoản Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô để nâng mức phí bảo hiểm xe cơ giới;[3] hoặc thông qua các hành vi tương tác ngầm giữa các doanh nghiệp trong thị trường tập trung hay còn gọi là thỏa thuận ngầm ví dụ như 2 doanh nghiệp nhập khẩu một mặt hàng để phân phối chính hãng có thể ngầm thỏa thuận theo dõi mức thay đổi về giá bán của nhau để điều chỉnh tương ứng.[4] Sự câu kết này của các doanh nghiệp đã được chứng minh là có hại không chỉ đối với quá trình cạnh tranh mà cả với quyền lợi của người tiêu dùng ví dụ vụ việc 12 công ty bảo hiểm học sinh ở Khánh Hòa đã ký thỏa thuận thống nhất giá dịch vụ bảo hiểm học sinh để hạn chế cạnh tranh lẫn nhau.[5] Do vậy, mọi hành động câu kết nhằm hạn chế cạnh tranh phải bị cấm và loại bỏ. Mặt khác, như một phần của quyền tự chủ kinh doanh, các doanh nghiệp được quyền lựa chọn hợp tác hay cạnh tranh lẫn nhau miễn là sự lựa chọn đó không gây tổn hại đến người tiêu dùng. Chẳng hạn như trong lĩnh vực công nghệ, chi phí để tự nghiên cứu và phát triển một sản phẩm mới đôi khi rất cao do rào cản về độc quyền khai thác bằng sáng chế, trong khi đó việc mua lại sản phẩm từ đối thủ cạnh tranh sẽ giúp làm giảm chi phí. Do vậy, doanh nghiệp có thể thỏa thuận cùng sử dụng sáng chế “patent pool”, theo đó các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh thỏa thuận cùng khai thác sử dụng sáng chế lẫn nhau, giúp các bên tiết kiệm chi phí đầu tư của các bên tham gia nhưng đi kèm với nó cũng là các hạn chế về khai thác thương mại như không cạnh tranh, giá cả, phân chia địa bàn cung ứng, bán kèm, Trong các trường hợp này, luật cạnh tranh không nên cấm các doanh nghiệp tham gia hợp tác vì chúng có tác dụng thúc đẩy hiệu quả kinh tế. Việc phân biệt câu kết với các dạng hợp tác thúc đẩy cạnh tranh khác, đặc biệt là khi các tác động thực sự của việc hợp tác không thể thấy ngay được là một vấn đề tương đối phức tạp, đòi hỏi sự cẩn trọng khi xây dựng các quy định điều chỉnh thỏa thuận HCCT.[6] 2. Yêu cầu đối với pháp luật điều chỉnh thỏa thuận HCCT Từ các phân tích trên, để đảm bảo tính hiệu quả, pháp luật điều chỉnh thỏa thuận HCCT cần đáp ứng các yêu cầu sau Thứ nhất, cần có các quy định chặt chẽ và chế tài nghiêm khắc đối với thỏa thuận HCCT. Như đã đề cập ở phần trên, do khả năng tối đa hóa lợi nhuận trong ngắn hạn, doanh nghiệp luôn có động lực để câu kết hình thành các thỏa thuận HCCT. Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh ở nhiều nước đã cho thấy thỏa thuận HCCT luôn đứng đầu về số lượng và tính chất so với các vi phạm cạnh tranh khác. Theo thống kê của Hội đồng Châu Âu, trong năm 2013-2017, có 181 doanh nghiệp bị phạt do tham gia thỏa thuận HCCT với tổng số tiền lên đến hơn tỉ Euro.[7] Tại Việt Nam, 2 trong số 3 quyết định xử phạt hành vi HCCT do Hội đồng cạnh tranh HĐCT ban hành cho đến nay là vi phạm quy định về thỏa thuận HCCT. Về khía cạnh hiệu quả, các nghiên cứu kinh tế đã chứng minh thỏa thuận HCCT ít hiệu quả hơn và nguy hại hơn so với cả độc quyền hay tập trung kinh tế theo chiều ngang.[8] Do đó, việc áp dụng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ và chế tài nghiêm khắc đối với thỏa thuận HCCT là cần thiết nhằm giảm động lực câu kết giữa các doanh nghiệp. Thứ hai, cần có các biện pháp hữu hiệu để các bên tự phá vỡ thỏa thuận HCCT. Các doanh nghiệp có khuynh hướng che dấu thỏa thuận HCCT để tránh sự trừng phạt của pháp luật cạnh tranh. Do vậy, các thỏa thuận HCCT trở nên khó bị phát hiện và điều tra do cơ quan cạnh tranh thiếu chứng cứ để xử lý. Thực tế là cho đến nay các thỏa thuận HCCT đã bị xử lý tại Việt Nam đều là các thỏa thuận công khai, cho thấy khả năng các doanh nghiệp có những thỏa thuận HCCT nhưng chưa bị phát hiện là cao. Tuy nhiên, các thỏa thuận HCCT hoàn toàn có thể bị vô hiệu hóa nếu pháp luật, chính sách cạnh tranh có thể tận dụng các điểm yếu nội tại hoặc bên ngoài của các thỏa thuận HCCT. Ví dụ như gỡ bỏ rào cản thâm nhập thị trường để làm gia tăng liên tục các đối thủ cạnh tranh từ bên ngoài, từ đó làm suy yếu các nhóm có thỏa thuận HCCT. Bên cạnh đó, việc áp dụng chính sách khoan hồng miễn hoặc giảm mức độ chế tài vi phạm cạnh tranh đối với các doanh nghiệp hợp tác với cơ quan điều tra khai báo và cung cấp bằng chứng về một thỏa thuận HCCT là một biện pháp hữu hiệu để phát hiện kịp thời và xử lý hiệu quả các thỏa thuận HCCT ngầm. Việc kết hợp yêu cầu thứ nhất và thứ hai trên đây cây chính là cách tiếp cận “cây gậy và củ cà rốt” trong việc phát hiện và xử lý thỏa thuận HCCT mà Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD thường khuyến nghị áp dụng. Cơ sở của cách tiếp cận này xuất phát từ động cơ hình thành các thỏa thuận HCCT trước khi tham gia thỏa thuận HCCT, các doanh nghiệp phải cân nhắc giữa lợi nhuận đem lại và chi phí bỏ ra để thực hiện. Một cơ chế xử lý thỏa thuận HCCT hiệu quả đòi hỏi phải đáp ứng hai yếu tố áp đặt các biện pháp chế nghiêm khắc mang tính răn đe đối với các bên tham gia thỏa thuận HCCT – tức biện pháp trừng phạt “cây gậy”, đồng thời tạo ra các cơ chế khuyến khích các bên tham gia thỏa thuận HCCT rút khỏi thỏa thuận và báo cáo cơ quan quản lý cạnh tranh về các thỏa thuận đó – tức biện pháp động viên “củ cà rốt”. Biện pháp trừng phạt cần phải đủ tính răn đe nghĩa là phải phạt thật nặng thì mới có hiệu ứng như mong muốn đối với các biện pháp động viên. Bởi vì tính hiệu quả của biện pháp động viên phụ thuộc vào tính hiệu quả của biện pháp trừng phạt.[9] Thứ ba, các quy định của luật cạnh tranh cần cấm tuyệt đối các thỏa thuận ấn định giá, giới hạn sản lượng, phân chia thị trường/khách hàng và thông thầu thường được gọi là Hardcore cartels, tạm dịch là Các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng. Các nghiên cứu kinh tế chỉ ra rằng Các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng không đem lại bất kỳ hiệu quả kinh tế nào và chỉ gây ra những tác động tiêu cực đối với cạnh tranh và lợi ích người tiêu dùng. Do vậy, cần có cơ chế cho phép cơ quan cạnh tranh bỏ qua bước đánh giá tác động HCCT đối với các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng. Chỉ cần chứng minh được có sự tồn tại thỏa thuận này là Cơ quan cạnh tranh có thể áp dụng chế tài đối với các bên tham gia, không cần phải thực hiện thêm một bước là đánh giá tác động HCCT. Điều này sẽ giúp rút ngắn thời gian điều tra, xử lý, nâng cao hiệu lực của pháp luật cạnh tranh. Thứ tư, những thỏa thuận có tác động HCCT nhưng có thể đem lại hiệu quả kinh tế mà không thể đạt được thông qua cạnh tranh cần được xem xét tính hợp lý thay vì cấm tuyệt đối. Khác với Các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng Hardcore cartels, một số dạng thỏa thuận HCCT có thể có các mục đích khác hơn là chỉ ấn định giá hoặc sản lượng, như các thỏa thuận tận dụng lợi thế về quy mô để thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ công nghệ. Trong các trường hợp này các cơ quan quản lý cạnh tranh phải cân nhắc cả các tác động HCCT và thúc đẩy cạnh tranh của thỏa thuận để cho phép hay không. Nếu các tác động thúc đẩy cạnh tranh đem lại nhiều hơn so với tác động HCCT, các thỏa thuận đó có thể được cho phép thực hiện chẳng hạn thông qua miễn trừ.[10] Trong phần tiếp theo, tác giả sẽ đánh giá tính phù hợp, khả thi của các quy định về thỏa thuận HCCT trong Luật Cạnh tranh 2004 LCT theo các nguyên tắc trên và so sánh với kinh nghiệm quốc tế. 3. Đánh giá các quy định về thỏa thuận HCCT trong Luật Cạnh tranh 2004 Các quy định về các thỏa thuận HCCT quy định tại Chương II của LCT. Điều 8 LCT quy định tám loại thỏa thuận HCCT. Điều 9 quy định cấm thỏa thuận HCCT theo hai cách gồm cấm tuyệt đối và cấm trên cơ sở thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan từ 30% trở lên. Cụ thể, nhóm thứ nhất bao gồm các thỏa thuận HCCT sau đây thỏa thuận ngăn cản tham gia thị trường, thỏa thuận loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường, thỏa thuận thông đồng thắng thầu. Các thỏa thuận thuộc nhóm này đương nhiên là trái pháp luật cấm tuyệt đối, tức là các cơ quan quản lý cạnh tranh không cần phải xem xét yếu tố về thị phần của các bên tham gia thỏa thuận HCCT cũng như khả năng mang lại hiệu quả kinh tế để được đáp ứng điều kiện miễn trừ. Nhóm thứ hai bao gồm các thỏa thuận HCCT sau đây thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ hoặc khách hàng, thỏa thuận hạn chế sản phẩm đầu ra, thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư. Các thỏa thuận này được áp dụng cơ chế gần như nguyên tắc hợp lý, nghĩa là chỉ bị cấm trong trường hợp các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp từ 30% trở lên trên thị trường liên quan và có thể được hưởng miễn trừ nếu các thỏa thuận HCCT đó nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng.[11] Mặc dù đã đáp ứng được phần nào yêu cầu điều chỉnh đối với hành vi thỏa thuận HCCT, các quy định của Luật Cạnh tranh vẫn còn tồn tại một số bất cập dẫn đến hiệu quả thực thi chưa cao. Cụ thể như sau Về khái niệm thỏa thuận HCCT, LCT có cách tiếp cận hẹp dựa trên hành vi thay vì xem xét bản chất HCCT của thỏa thuận dẫn đến quy định của luật không bao quát được các hành vi thỏa thuận HCCT trên thực tế. Luật Cạnh tranh không đưa ra bất kỳ định nghĩa nào về thỏa thuận HCCT. Do đó, phạm vi của quy định pháp luật điều chỉnh thỏa thuận HCCT bị giới hạn bởi tám loại thỏa thuận HCCT được liệt kê tại Điều 8 LCT. Về vấn đề này, Luật mẫu UNCTAD không đưa ra hạn chế dạng thỏa thuận HCCT.[12] Cách tiếp cận của UNCTAD tương tự pháp luật cạnh tranh của Liên minh Châu Âu, theo đó Uỷ ban Châu Âu và các tòa án đã nhiều lần khẳng định danh sách các loại thỏa thuận HCCT nêu tại Khoản 1, Điều 101 của Hiệp ước thành lập Liên minh Châu Âu TFEU không phải là một danh sách hoàn chỉnh và đầy đủ. Theo đó, mọi thỏa thuận có yếu tố HCCT đều chịu sự điều chỉnh bởi luật cạnh tranh.[13] Như vậy, cách tiếp cận quy định hành vi thỏa thuận HCCT dưới hình thức liệt kê, mô tả biểu hiện bên ngoài của hành vi như trong LCT hiện nay là bất hợp lý,thỏa có thể dẫn đến bỏ sót các hành vi thỏa thuận phản cạnh tranh diễn ra trên thực tế nhưng chưa được mô tả, liệt kê hoặc giải thích, chẳng hạn thỏa thuận HCCT thông qua việc trao đổi các thông tin về giá hay về thị trường, thị phần. Phương pháp phân loại các thỏa thuận không xem xét bản chất và tác động của các thỏa thuận đối với quá trình cạnh tranh cũng như quyền lợi người tiêu dùng. Các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng được coi là có tác động xấu đối với cạnh tranh và cần bị cấm tuyệt đối ở nhiều nước trên thế giới[14] bao gồm thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận hạn chế sản lượng khoản 2, và thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ hoặc khách hàng khoản 3 thì lại được xếp vào nhóm thứ hai. Như vậy, các doanh nghiệp vẫn có thể tham gia các thỏa thuận HCCT này một cách hợp pháp nếu có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan thấp hơn 30%. Trường hợp vượt quá ngưỡng này, các bên tham gia thỏa thuận vẫn có thể độc lập được hưởng miễn trừ nếu các bên đó đáp ứng các tiêu chí chung theo luật định.[15] Cách phân loại này cho thấy tại thời điểm ban hành LCT, các nhà làm luật vẫn chưa chưa thực sự đánh giá đúng bản chất phản cạnh tranh của các dạng Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng. Khi vấn đề này được đưa ra tranh luận tại Quốc Hội, quan điểm nghiêm cấm các loại Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng không nhận được nhiều sự đồng tình của các đại biểu Quốc hội.[16] Thực tế cho thấy hiện nay sau 10 năm Luật cạnh tranh ra đời, vẫn có nhiều trường hợp các doanh nghiệp đối thủ cạnh tranh dấu hiệu cùng câu kết thao túng giá gây ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng nhưng chưa được xử lý.[17] Điều này một phần xuất phát từ bất cập trong quy định về xác định thị trường liên quan, dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá thị phần kết hợp của các bên tham gia. Như đã trình bày ở trên hiện nay các nước trên thế giới, và cả các định chế quốc tế khác như OECD, và Mạng lưới cạnh tranh quốc tế ICN đều khuyến cáo phải có thái độ nghiêm khắc và quyết liệt nhất chống lại Các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng do vậy cần phải điều chỉnh phương pháp phân loại theo xu thế chung của thế giới là cấm tuyệt đối Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng. Điểm bất hợp lý thứ ba là LCT còn tạo hành lang an toàn khá rộng là mức 30% thị phần trên thị trường liên quan cho các dạng thỏa thuận HCCT thuộc nhóm hai. Cách tiếp cận này được sử dụng bởi vì ban soạn thảo trước đây nhận thức rằng hầu hết các thỏa thuận HCCT không gây hại cho môi trường cạnh tranh và cho các khách hàng nếu các bên tham gia thỏa thuận HCCT không giữ vị trí thống lĩnh.[18] Một lý do cũng được đưa ra để lý giải cho mức thị phần 30% là dựa trên căn cứ tham khảo ngưỡng thị phần áp dụng tại Pháp Lệnh Bưu Chính và Viễn Thông có hiệu lực tại thời điểm đó.[19] Tuy nhiên có lẽ mục tiêu sâu xa hơn là để bảo vệ các doanh nghiệp nội địa với tiềm lực hạn chế trước những đối thủ cạnh tranh nước ngoài tiềm năng sẽ gia nhập thị trường Việt Nam một khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.[20] Cụ thể, theo Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội Việt Nam, ngưỡng quy định đã được xác định trên cơ sở xét thấy hầu hết các doanh nghiệp nội địa là doanh nghiệp vừa và nhỏ với mức vốn pháp định chưa đến 10 tỷ VNĐ xấp xỉ USD và số lao động chưa đến 300 người. Các doanh nghiệp này được cho là có thị phần chưa đến 30% và do đó không thuộc trường hợp gây ảnh hưởng đến tính cạnh tranh trên thị trường. Trong khi đó, truyền thống kinh doanh của người Việt Nam nói riêng và người Á Đông nói chung là “buôn có bạn bán có phường”, nên có ý kiến lo ngại là các quy định cấm các doanh nghiệp nội địa tham gia thỏa thuận HCCT sẽ làm giảm lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp nước ngoài. Các hệ thống pháp luật như Liên Minh Châu Âu, hay Hoa Kỳ đều có quy định về hành lang an toàn dành cho một số thỏa thuận HCCT theo chiều ngang dựa trên ngưỡng thị phần. Tuy nhiên, các ngưỡng này thấp hơn nhiều so với ngưỡng 30% của Việt Nam và hành lang an toàn không được áp dụng đối với các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng trong mọi trường hợp. Ví dụ, EU áp dụng ngưỡng 10%, ngoại trừ các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng.[21] Như đã nêu trên, các nghiên cứu kinh tế đã chứng minh hành vi thỏa thuận HCCT có tác hại hơn các dạng hành vi HCCT khác, vì vậy cần phải xem xét thu hẹp hành lang an toàn đối với thỏa thuận HCCT so với hiện nay. Đing hành vi HC thứ tư là các điều kiện miễn trừ áp dụng đối với một số loại thỏa thuận HCCT nhất định quy định tại khoản 1, Điều 10 LCT là khá chung chung và không đưnglà khá chu rõ ràng d ràng khá chung chung và dụng đối với một số loại. Theo quy định tại Điều 10, thỏa thuận HCCT thuộc nhóm hai dù vượt quá ngưỡng thhuộc nhóm hai d30% vẫn được cho phép nếu các thỏa thuận HCCT thỏa mãn bất kỳ tiêu chí nào trong số sáu tiêu chí mihỏa mãnmà luật quy định. Cụ thể, luật miễn trừ các thỏa thuận HCCT có mục đích i hợp lý hoá việc tổ chức kinh doanh của các bên tham gia thỏa thuận HCCT; ii thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật; iii thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của các chủng loại sản phẩm; iv thống nhất các điều kiện kinh doanh; v tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; hoặc vi tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Các tiêu chí mi tiến bộ kỹ thuật;thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của các chủng loại sản phẩm; iv thống nhất các điều kiện kinh doanh;Tuy nhiên, không có hướng dẫn bổ sung nào để xử lý đối với trường hợp đáp đng tiêu chí trên nhưng lại có tác động HCCT. Hay nói cách khác, luật còn để ngỏ về cách thức cơ quan quản lý cạnh tranh cân bằng các ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của thỏa thuận HCCT để làm cơ sở xác định trường hợp được miễn trừ. So sánh vơ sở xác định trường hợppháp lu vơ sở xác định trường hợp được miễn trừ. thỏa thuận nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của các chủng loại sản phẩm; iv thống nhất các điều kiện kinh doanh; v tăng cường sức cạnh tranh của doanh ncủa EU yêu cầu các thỏa thuận HCCT được miễn trừ phải cho phép các khách hàng được chia sẻ lợi ích một cách công bằng khoản 3, Điều 10 TFEU. Tương tự, điều kiện tiên quyết để được hưởng miễn trừ theo luật mẫu UNCTAD là thỏa thuận đó phải tạo ra lợi ích ròng’ – nghĩa là lợi ích của thỏa thuận phải lớn hơn các tác động phản cạnh tranh của thỏa thuận đó. Đháp lu v, tính hu vơ sở xác định trường hợp được miễn trừ. thỏa cínhphnh đưnh hu vơ sở xác định trường hợp được miễn trừ. thTrưh hu vơ sở xác định trường hợp được miễn trừ. thỏa thuận nhất các tiêu chuẩn cơ sưh hu vơ thưh hu vơ hhưh hu vơ sở xác định trường hợp được miễn trừ. thỏa thuận nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của các chủng loại sản phẩm; iv thống nhất các điều kiện kinh doanh; v tCác quy đqhu vơ g đqhu vơ sở xác định trường hợp được miễ nêu trên c sở xác định trườnđã đưrên c sở xtã năm 1999.[22] Tương tự, các trưtự, sở xác định thic trưtựcũng không đưự, xem là căn c xác địn hưm là căn c x theo luật ctheo luật Hoa Kỳ và EU. Bất hợp lý thứ năm là LCT và các văn bản hướng dẫn không đưa giải thích về việc xác định hình thức “thỏa thuận” cũng làm cho việc thực thi của cơ quan quản lý cạnh tranh trở nên khó khăn vì thường các thỏa thuận HCCT thường không được công bố công khai. Đồng thời, các đối thủ cạnh tranh vẫn có thể “câu kết” với nhau để hạn chế cạnh tranh dưới dạng trao đổi thông tin gián tiếp qua bên thứ ba như hiệp hội, doanh nghiệp nghiên cứu thị trường, hoặc cấu kết ngầm thông qua việc phối hợp cùng hành động Do vậy, với cách quy định hiện tại cơ quan quản lý cạnh tranh không có cơ sở rõ ràng để xử lý các thỏa thuận HCCT “ngầm”. Quan sát trên thị trường trong thời gian qua, có một số trường hợp các doanh nghiệp đồng loạt tăng giá gas, giá thép trong thời gian qua có dấu hiệu phối hợp để điều chỉnh giá nhưng không có cơ sở để xử lý.[23] Điểm bất hợp lý thứ sáu là các quy định về hình phạt và áp dụng hình phạt đối với thỏa thuận HCCT chưa thật sự nghiêm khắc và chưa có cơ chế động viên các bên của thỏa thuận chủ động tố giác thỏa thuận HCCT.[24] Điều 18 của LCT lấy tổng doanh thu trên toàn quốc để làm cơ sở tính mức tiền phạt. Mức 10% tổng doanh thu là tương đối thấp so với các hệ thống pháp luật khác, chẳng hạn như tại Hoa Kỳ, mức phạt tối đa có thể lên đến 20% giá trị thương mại của các giao dịch bị ảnh hưởng,[25] còn EU áp dụng mức tối đa là 10% doanh thu toàn cầu của doanh nghiệp vi phạm.[26] Cũng liên quan đến vấn đề chế tài, cả LCT lẫn các văn bản hướng dẫn thi hành đều không quy định chi tiết cách thức tính mức tiền phạt. Những quy định liên quan chỉ đưa ra các tiêu chí chung xác định mức độ xử lý[27] và các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng để điều chỉnh mức tiền phạt.[28] Chính vì vậy mà pháp luật đã tạo ra thẩm quyền khá rộng cho các cơ quan trong việc tùy nghi áp dụng các tiêu chí đó. Việc này có khả năng dẫn đến các hệ quả không mong muốn Một là các cơ quan có thể đặt ra mức tiền phạt quá cao hoặc quá thấp cho các bên tham gia thỏa thuận HCCT. Hai là có thể có sự khác nhau trong mức tiền phạt cuối cùng được áp dụng cho các hành vi vi phạm tương tự nhau, bởi vì pháp luật không quy định rõ ràng mỗi tiêu chí sẽ được áp dụng ra sao. Điều này có thể đe dọa đến tính tương xứng của mức phạt và hành vi cũng như gây ra nguy cơ có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp. Trên thực tế, mức tiền phạt đối với các thỏa thuận ấn định giá mà Hội Đồng Cạnh Tranh HĐCT áp dụng là rất thấp và hầu như không có tính răn đe. Ví dụ, trong vụ việc 19 doanh nghiệp bảo hiểm ấn định mức phí bảo hiểm xe cơ giới, HĐCT áp dụng mức hình phạt tương đương 0,025% tổng doanh thu của năm tài chính 2007 với tổng số tiền phạt trên 1,7 tỷ đồng.[29] Trong vụ việc 12 doanh nghiệp bảo hiểm thống nhất ấn định giá bảo hiểm học sinh, HĐCT không ấn định mức phạt mà chỉ yêu cầu nộp 100 triệu phí xử lý vụ việc cạnh tranh.[30] Như vậy mức phạt trong hai vụ này đã thể hiện rõ các vấn đề như đã phân tích ở trên mức phạt vừa rất thấp, vừa không thống nhất về nguyên tắc xử lý. Thêm vào đó, LCT vẫn chưa có quy định nào về chương trình khoan hồng. Việc thiếu hụt chương trình khoan hồng càng khiến cho các nỗ lực ngăn ngừa các thỏa thuận HCCT trở nên khó khăn hơn, vì không có cơ chế nào khuyến khích các bên tham gia thỏa thuận trình báo và cung cấp chứng cứ hỗ trợ cho hoạt động điều tra. 4. Khuyến nghị sửa đổi các quy định về TTHCCT trong pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam. Năm 2015, Cục Quản Lý Cạnh Tranh “CQLCT” đã công bố Báo Cáo Rà Soát Luật Cạnh Tranh trong đó cũng ghi nhận một số điểm bất cập như đã đề cập ở phần trên.[31] Dự thảo Lần 2 Luật Cạnh tranh “Dự Thảo” vừa được Chính phủ công bố để lấy ý kiến cũng đã phần nào giải quyết được các vấn đề nêu trên. Trong đó đáng kể nhất là đã ban hành định nghĩa Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Điều 3; phân loại các hành vi thỏa thuận HCCT thuộc các nhóm điều chỉnh phù hợp với thông lệ quốc tế trong pháp luật cạnh tranh Điều 12 & Điều 13; quy định các tiêu chí đánh giá tác động HCCT một cách đáng kể Điều 14; và ban hành chính sách khoan hồng Điều 17. Tác giả có một số đề xuất để cải thiện tính hiệu quả trong việc thực thi các quy định liên quan đến Thỏa thuận HCCT trong Dự Thảo theo các nguyên tắc nêu tại Phần 1. Xác định thỏa thuận HCCT bị cấm Khoản 7, Điều 3 Dự Thảo định nghĩa “Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là cam kết hoặc sự ràng buộc giữa các bên dưới mọi hình thức có tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường.” Định nghĩa này khá rộng nhưng vẫn có thể chưa bao quát toàn bộ các trường hợp có thể được xem là hình thành thỏa thuận HCCT. Ví dụ, các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh có thể gián tiếp thỏa thuận HCCT bằng cách chia sẻ thông tin thương mại nhạy cảm như giá cả, chiến lược sản phẩm, thị trường, thông qua một bên thứ ba. Trong trường hợp này, bên thứ ba đóng vai trò là trung gian tiếp nhận và chuyển thông tin. Giữa các bên không nhất thiết phải có sự cam kết hoặc ràng buộc cụ thể nào, tuy nhiên, bản chất việc chia sẻ thông tin thương mại nhạy cảm đã ảnh hưởng đến quyết định thương mại của các bên tham gia và đi đến hành vi thông đồng để HCCT như cùng tăng giá, hoặc găm hàng tại một thời điểm để trục lợi. Trong khi đó, luật cạnh tranh ở các nước thường không cố gắng đưa ra định nghĩa về thỏa thuận HCCT vì thực tế cho thấy các hành vi TTHCT là rất đa dạng khó có thể đưa ra được một định nghĩa bao quát các trường hợp. Nghiên cứu luật cạnh tranh của các nước có ảnh hưởng lớn như Mỹ và EU đều thấy có đặc điểm chung là họ thiết kế theo dạng hành vi và dùng ngôn ngữ bao quát để xác định các dạng câu kết phản cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Điều 1 của Đạo Luật Sherman, Mỹ quy định “Mọi hợp đồng, sự liên kết dưới dạng tờ rớt hay bất kỳ dạng nào khác, hoặc âm mưu, làm hạn chế kinh doanh hoặc thương mại giữa các tiểu Bang, hoặc với nước ngoài, đều bị tuyên bố là vi phạm pháp luật”.[32] Điều 1011 của TFEU quy định “Những hành vi sau sẽ bị cấm vì không phù hợp với thị trường chung tất cả các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, các quyết định của hiệp hội các doanh nghiệp, và các hành vi thông đồng có tác động ảnh hưởng đến kinh doanh giữa các Quốc gia thành viên và có mục đích hoặc tác động cản trở, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh trong thị trường chung”.[33] Điều 3, Luật Cạnh tranh Mẫu của UNCTAD gợi ý “Cấm các thỏa thuận sau đây giữa các đối thủ cạnh tranh hoặc các đối thủ cạnh tranh tiềm năng, bất kể thỏa thuận đó ở dạng văn bản hay miệng, chính thức hay không chính thức …”.[34] Bên cạnh đó thiết kế các quy định tại Điều 12 và Điều 13 Dự Thảo vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi Điều 8 và Điều 9 LCT hiện nay. Theo đó Điều 12 liệt kê các dạng thỏa thuận HCCT, Điều 13 phân loại thỏa thuận bị cấm tuyệt đối Điều và có thể được xem xét theo nguyên tắc hợp lý Điều Điểm mới của Dự Thảo là không còn giới hạn số lượng hành vi thỏa thuận HCCT như tại Điều 8 trước đây mà bổ sung điều khoản quét cho phép xem xét các thỏa thuận HCCT khác theo quy định tại khoản 7 Điều 3. Quy định này khắc phục hạn chế của Điều 8 LCT hiện nay, cho phép cơ quan cạnh tranh có thể điều tra xử lý hành vi HCCT không được liệt kê tại Điều 12 Dự Thảo. Việc phân nhóm tại Điều 13 Dự Thảo cũng được cập nhật so với Điều 9 LCT hiện nay. Theo đó, các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh bị cấm tham gia các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng nêu từ khoản 1 đến khoản 6 của Điều 12 Dự Thảo mà không cần phải xem xét khả năng gây tác động HCCT. Các thỏa thuận HCCT khác sẽ được xem xét thông qua tác động HCCT một cách đáng kể theo quy định tại Điều 14 Dự Thảo. Cách quy định trên của LCT và Dự Thảo là khá “đặc thù” và không thực sự hợp lý. Bởi vì, như đã phân tích ở trên, theo thông lệ trên thế giới, một nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi là các Thỏa thuận có mục đích hoặc ảnh hưởng HCCT đều bị cấm trừ khi được cho phép thực hiện miễn trừ theo quy định của luật. Luật đưa ra các tiêu chí để cơ quan quản lý cạnh tranh xác định một thỏa thuận có “mục đích hoặc ảnh hưởng HCCT” hay không theo nguyên tắc hợp lý; và các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng được giả định là luôn có “mục đích hoặc ảnh hưởng HCCT” nên không cần phải xem xét nữa theo nguyên tắc cấm mặc nhiên. Quy định tại khoản 2 Điều 13 Dự Thảo chưa thật sự hợp lý vì Cách quy định này tạo cảm giác không nhất quán trong thái độ của nhà làm luật với thỏa thuận HCCT, nghĩa là Thỏa thuận HCCT có thể được phép thực hiện thay vì bị cấm. Trong khi đó, cách tiếp cận đúng phải là mọi thỏa thuận HCCT đều phải bị cấm. Bên cạnh đó, cách tiếp cận này cũng đặt gánh nặng chứng minh cho cơ quan quản lý cạnh tranh. Theo đó, cơ quan quản lý cạnh tranh phải chứng minh được thỏa thuận “gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường”. Trong khi đó như trên đã nói, các thỏa thuận HCCT đã được chứng minh là có tác động xấu đến cạnh tranh và người tiêu dùng nên các cơ quan quản lý cạnh tranh không cần phải chứng minh nữa, và có thể xử lý luôn khi phát hiện thỏa thuận HCCT. Ngược lại, để được tiếp tục thực hiện/tránh khỏi bị trừng phạt, các doanh nghiệp sẽ phải chứng minh là thỏa thuận mà họ tham gia có đem lại hiệu quả hơn so với ảnh hưởng hạn chế cạnh tranh. Cách tiếp cận như vậy vừa giảm áp lực điều tra cho cơ quan quản lý cạnh tranh, vừa làm tăng chi phí cho các bên tham gia thỏa thuận và họ sẽ buộc phải cân nhắc toàn diện các tác động của thỏa thuận trước khi thực hiện. Ngoài ra, Dự Thảo vẫn chưa xác định rõ các quy định về Thỏa thuận HCCT có bao gồm thỏa thuận dọc hay không. Thiết kế theo quy định tại Điều 13 Dự Thảo cho thấy có thể bao gồm thỏa thuận dọc. Mặc dù vậy, để đảm bảo tính minh bạch Dự Thảo cần làm rõ tiêu chí này. Tác giả cho rằng trong giai đoạn hiện nay không nên cấm mở rộng để cấm các thỏa thuận dọc bởi vì hai lý do Thứ nhất, các thỏa thuận dọc có tác động HCCT thường ít rõ rệt hơn so với các thỏa thuận ngang. Trên thực tế, đôi khí khó so sánh được tác động HCCT cũng như các hiệu quả mà nó đem lại như hợp lý hóa kênh phân phối, mô hình kinh doanh, hậu mãi,.. Ví dụ, một doanh nghiệp sản xuất điện thoại sẽ muốn các nhà phân phối của mình đầu tư mở showroom để khách hàng trải nghiệm sản phẩm và có nhân viên tư vấn, chế độ hậu mãi tốt. Những yêu cầu này sẽ làm tăng chi phí của nhà phân phối và do vậy cần phải có sự phân chia thị trường tiêu thụ hoặc duy trì mức giá nhất định để đảm bảo hiệu quả đầu tư tránh tình trạng “cơ hôi” free-ride. Trong trường hợp này, cân nhắc hiệu quả và HCCT luôn khó khăn và cần nhiều thời gian để phân tích. Việc cấm các thỏa thuận như vậy sẽ không cần thiết nếu nhà sản xuất không có vị trí thống lĩnh trên thị trường. Thứ hai, việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật sẽ làm cho khối lượng công việc của cơ quan quản lý cạnh tranh tăng lên và khó có thể duy trì hiệu quả. Do vậy trước mắt, nên tập trung xử lý các thỏa thuận ngang. Các thỏa thuận dọc có thể được xem xét dưới dạng hành vi đơn phương lạm dụng vị trí thống lĩnh như hiện nay. Do vậy, tác giả cho rằng không cần thiết phải có định nghĩa Thỏa thuận HCCT tại khoản 7 Điều 3. Thay vào đó, cần bổ sung định nghĩa “Hành vi thông đồng”, “Thỏa thuận ngang”, “Thỏa thuận dọc” Ví dụ “Thỏa thuận là bất kỳ hình thức hợp đồng, dàn xếp hoặc câu kết nào giữa các doanh nghiệp, và bao gồm một quyết định của hiệp hội, hay hành vi thông đồng.” Điều 12 và Điều 13 nên được thiết kế lại, theo đó bỏ hẳn Điều 13 và điều chỉnh Điều 12 theo hướng như sau “Điều 12 Thỏa Thuận Hạn Chế Cạnh Tranh 1. Mọi thỏa thuận ngang có mục tiêu hoặc tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể đều bị cấm. 2. Các thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh mặc nhiên được xem là có mục tiêu hoặc tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể nếu chỉ nhằm mục đích hoặc đem lại hệ quả sau đây a Ấn định giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. b Phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ. c Hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ. d Ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh. e Loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận. f Thông đồng trong đấu thầu để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Điều 13 …Bỏ Quy định về miễn trừ Quy định về miễn trừ tại Điều 16 cho phép các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng có thể được hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận HCCT nếu đáp ứng một trong hai tiêu chí là i phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong cùng thời kỳ hoặc ii nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng. Trong dự thảo tờ trình Chính phủ của Ban soạn thảo không nêu rõ căn cứ để đưa ra hai tiêu chí này. Tuy nhiên, tác giả cho rằng quy định này cần được sửa đổi. Thứ nhất, như đã nêu ở phần trên cần khẳng định Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng sẽ không được hưởng miễn trừ trong mọi trường hợp. Thứ hai, các tiêu chí này là chưa thực sự hợp lý và có thể tạo sự tùy nghi lớn trong việc áp dụng. Cụ thể, tiêu chí i là không thật sự rõ ràng đồng thời trong bối cảnh cảnh các doanh nghiệp nhà nước DNNN vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nhiều ngành lĩnh vực kinh tế hiện nay, tiêu chí này có thể gây lo ngại rằng các DNNN có thể tận dụng quy định này để hợp pháp hóa các thỏa thuận HCCT nghiêm trọng và đạt lợi thế cạnh tranh hơn so với các doanh nghiệp tư nhân khác. Tiêu chí ii không nhất thiết đem lại lợi ích dài hạn cho quá trình cạnh tranh. Chẳng hạn các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh hiện hữu có thể tìm cách ngăn cản đối thủ cạnh tranh mới bằng cách thống nhất giảm giá hàng hóa, dịch vụ trong thời gian ngắn. Trong trường hợp này, mặc dù người tiêu dùng được hưởng lợi trước mắt là giá thành giảm, nhưng lại mất đi sự lựa chọn về hàng hóa dịch vụ do đối thủ cạnh tranh tiềm năng đem lại. Đồng thời, về dài hạn thị trường sẽ thiếu đi tính cạnh tranh vì đối thủ mới không thể tham gia và các bên của thỏa thuận sẽ lại nâng giá để thu hồi lợi nhuận khi không còn đe dọa từ đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Như vậy, thay vì đưa ra các tiêu chí miễn trừ, Luật cạnh tranh nên quy định các tiêu chí để chứng minh hiệu quả của thỏa thuận HCCT. ban soạn thảo có thể tham khảo quy định của EU. Theo đó, Điều 16 có thể được quy định như sau. Điều 16 Đánh giá hiệu quả của thỏa thuận HCCT 1. Các thỏa thuận HCCT thuộc khoản 1 Điều 12 của Luật này có thể được thực hiện nêu thị phần kết hợp của các bên dưới 10 phần trăm trên thị trường liên quan; nếu vượt quá có thể được cơ quan quản lý cạnh tranh xem xét cho thực hiện xem xét cho thực hiện nếu đáp ứng tất cả các điều kiện sau đây a đóng góp cho việc phát triển sản xuất hoặc phân phối hàng hóa, hoặc nhằm thúc đẩy tiến trình công nghệ hoặc kinh tế; b cho phép người tiêu dùng được chia sẻ công bằng fair share các lợi ích do thỏa thuận đem lại; c không áp đặt các bên tham gia thỏa thuận các hạn chế không thật sự cần thiết để đạt được mục đích của thỏa thuận; và d không cho phép các bên tham gia thỏa thuận loại bỏ cạnh tranh đối với sản phẩm liên quan. 2. Các bên của thỏa thuận phải có nghĩa vụ chứng minh thỏa thuận HCCT đáp ứng các điều kiện trên. Chính phủ quy định chi tiết về điều kiện, hồ sơ, thủ tục và phí thẩm định của cơ quan quản lý cạnh tranh theo quy định tại Điều này. [1] Luật sư thành viên, Công ty Luật LNT & Thành Viên Tác giả gửi lời cám ơn đến các bạn Trần Hải Thịnh và Nguyễn Diệu Quỳnh đã hỗ trợ để hoàn thành bài viết này. [2] Joe S. Bain 2006, What Determines Cartel Success? Điều Gì Quyết Định Đến Sự Thành Công Của Thỏa Thuận HCCT?, tạp chí Journal of Economic Literature, Vol. XLI tháng 03/2006, tr. 45. [3] Hội đồng cạnh tranh Việt Nam, Vụ việc Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, truy cập lần cuối 09/05/2017. [4] W. Kip Viscusi, John M. Vernon, Josehp E. Harrington, Jr. 2000, Economics of Regulation and Antitrust Kinh tế học về Hoạt động quản lý và Chống cạnh tranh, ấn bản số 03., The MIT Press, tr. 101. [5] Hội đồng cạnh tranh Việt Nam, Giải quyết vụ việc 12 doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, truy cập lần cuối 09/05/2017. [6] Ví dụ, xem Robert H. Bork 1987, The Antitrust Paradox A Policy at War with Itself Nghịch lý trong Chống độc quyền Một Chính sách Mâu thuẫn với Chính nó, Basic Books, Inc., New York, tr. 263 đến tr. 279. [7] Ủy ban châu Âu, Cartel Statistics Thống kê về Thỏa thuận HCCT, truy cập lần cuối 09/05/2017. [8] Phillip Areeda, Herbert Hovenkamp 2000, Antitrust Law An Analysis of Antitrust Principles and Their Application Pháp luật về Chống độc quyền Phân tích về Những Nguyên tắc Chống độc quyền và Ứng dụng của chúng, ấn bản số 02, tr. 2002. [9] OECD 2002, Reports Fighting against Hard-core Cartels Harm, Effective Sanctions and Leniency Programmes’ Báo cáo về Chống lại các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng Mối nguy hại, Các Biện pháp chế tài Hiệu quả và Các Chương trình Khoan hồng, OECD PUBLICATIONS, 24 2002 01 1 P ISBN 92-64-19735-4 – No. 52503 2002, tr. 12, xem tại truy cập lần cuối 13/04/2014; Xem thêm OECD 1998, Recommendation of the Council concerning Effective Action against Hard Core Cartels Các Khuyến nghị của Hội đồng liên quan đến Hành động có Hiệu quả nhằm chống lại Các Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng, [C/M987/PROV], tr. 921; ICN 2005, Defining Hard Core Cartel Conduct Effective institutions, Effective Penalties – Building Blocks for Effective Anti-Cartel Regimes Định rõ Hành vi Thỏa thuận HCCT Nghiêm trọng các Định chế có Hiệu quả, các Biện pháp trừng phạt Hiệu quả – Tạo dựng các Trở ngại phục vụ cho những Chế độ Chống lại Thỏa thuận HCCT có Hiệu quả, báo cáo tại Hội nghị Thường niên lần thứ 4 của Mạng lưới Cạnh tranh Quốc tế ICN tại Bonn, Đức tháng 06/2005, tr. 53, xem tại truy cập lần cuối 13/04/2014. [10] Ví dụ Areeda và Kaplow đã đề xuất một loạt các câu hỏi dành cho tòa án khi giải quyết một vụ việc về ấn định giá. Các vấn đề sẽ được đề cập cụ thể trong Chương 2. Xem thêm Phillip Areeda, Louis Kaplow 1988, Antitrust Analysis Problems, Text, Cases Law School Casebook Series Phân tích về Chống Độc quyền Các Vấn đề, Lý thuyết, Các Vụ việc thực tiễn – Tuyển tập Sách Chuyên khảo trong Trường Luật, ấn bản số 04, Little Brown & Co Law & Business, tr. 196. [11] Khoản 1, Điều 10 LCT. [12] Bình luận của UNCTAD Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển về các điều khoản liên quan đến các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định rõ rằng [c]ác hành vi kinh doanh mang tính hạn chế cạnh tranh được liệt kê từ điểm a đến điểm g của điều 3 được đưa ra với với trò là ví dụ và không nên hiểu đó là danh sách tất cả các hành vi ’. Luật Mẫu về Cạnh Tranh’ của UNCTAD 2007 TD/RBP/ đoạn 27. [13] Bản Hợp nhất Hiệp ước thành lập Liên minh Châu Âu [2008] OJ C115/47 TFEU. [14] Ví dụ, theo Thông báo của Ủy ban về các thỏa thuận ít quan trọng có tác động hạn chế cạnh tranh không đáng kể quy định tại Điều 811 Hiệp Ước Thành Lập Cộng đồng Châu Âu trường hợp de minimis – không đáng kể [Công báo số C 368 ngày nguyên tắc de minimis không được áp dụng đối với các Thỏa thuận nhằm HCCT như thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận hạn chế sản phẩm đầu ra, và thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ hoặc khách hàng. [15] Khoản 2 Điều 9 và Điều 10 LCT. [16] Ví dụ, Pháp lệnh về Giá số 40/2002/PL-UBTVQH10 ngày 26/04/2002 nghiêm cấm các doanh nghiệp bán dưới mức mức giá thị trường. Pháp lệnh được thay thế bởi Luật Giá 2012. Trong các buổi thảo luận của Quốc hội về dự thảo LCT, một số đại biểu cho rằng các thỏa thuận ấn định giá giữa các doanh nghiệp là hoạt động kinh doanh bình thường và vì thế không nên bị nghiêm cấm. Tuy nhiên, quan điểm này không được chấp nhận bởi Ban soạn thảo. Xem thêm Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc trả lời ý kiến của các đại biểu Quốc hội liên quan đến Luật Cạnh tranh. [17] Quỳnh Như 2011, Bảo hiểm “bắt tay” làm giá Thị phần nhỏ, khó xử lý, truy cập lần cuối 09/05/2017. [18] Bộ Thương mại Việt Nam 2004, Tờ Trình Chính Phủ về Dự án Luật Cạnh tranh, ngày 06/01/2004, tr. 5. [19] Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam 2004, Báo cáo Giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Cạnh tranh trình Quốc hội thông qua ngày 13/10/2004, tr. 9, 10. [20] [21] Thông báo về các Thỏa Thuận Ít Quan Trọng OJ [2001] C 683/13 thay thế Thông báo OJ [1997] C 372/13, 7a & b. [22] Hiroshi Iyori và Akinori Uesugi 1983, Luật Chống Độc Quyền của Nhật Bản, Ấn Phẩm Pháp Luật Liên Bang, tr. 75, 76. [23] Mai Hà 2012, Doanh nghiệp gas bắt tay làm giá, truy cập lần cuối 09/05/2017; Báo Đại đoàn kết 2016, Giá thép nhảy múa – người tiêu dùng chịu thiệt, truy cập lần cuối 09/05/2017. [24] Bộ luật Hình sự 2015 đã hình sự hóa hành vi thỏa thuận HCCT, khẳng định tính nghiêm khắc của pháp luật đối với hành vi này. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng việc quy định về hành vi này tại Điều 217 chưa được nghiên cứu kỹ và có thể làm phát sinh nhiều vấn đề trong quá trình thực hiện. Xem thêm Đoàn Tử Tích Phước 2016, Chống Cartel, phải phạt thật nặng, truy cập lần cuối 09/05/2017. [25] Hội Đồng Kết Án Hoa kỳ “United States Sentencing Commission”, Sổ Tay Hướng Dẫn, Mục Nov. 2008, Phần R, xem tại truy cập lần cuối 13/04/2014. [26] Quy Chế Hội Đồng EC số 1/2003 ngày 16/12/2002 về việc thực hiện các quy tắc cạnh tranh được quy định tại các Điều 81 và Điều 82 của Hiệp ước Văn bản với nội dung phù hợp với Khu vực Kinh tế châu Âu – EEA, Chương VI, xem tại truy cập lần cuối 13/04/2014. [27] Điều 7 Nghị định 120 Điều 4 Nghị định 71/2014/NĐ-CP [28] Điều 85 Nghị định 116/2005/NĐ-CP. [29] Thùy Duyên 2010, Phạt 19 doanh nghiệp bảo hiểm “Mang tính chất cảnh báo”, truy cập lần cuối 09/05/2017. [30] Hải Vân 2013, Hủy “Bản thỏa thuận” và nộp phạt 100 triệu đồng, truy cập lần cuối 09/05/2017. [31] Bản báo cáo tóm tắt có tại trang web của CQLCT truy cập lần cuối 18/02/2014. [32] Nguyên văn “Every contract, combination in the form of trust or otherwise, or conspiracy, in restraint of trade or commerce among the several States, or with foreign nations, is declared to be illegal.” [33] Nguyên văn “The following shall be prohibited as incompatible with the common market all agreements between undertakings, decisions by associations of undertakings and concerted practices which may affect trade between Member States and which have as their object or effect the prevention, restriction or distortion of competition within the common market…” [34] Nguyên văn “Prohibition of the following agreements between rival or potentially rival firms, regardless of whether such agreements are written or oral, formal or informal…” Danh mục Báo cáo khoa học ... cnh tranh gay gt s dn n tỡnh trng cnh tranh khụng lnh mnh, hn ch cnh tranh v c quyn tt yu s xut hin. Theo kinh t hc, hn ch cnh tranh v c quyn c hiu nh l kt qu ng nhiờn ca quỏ trỡnh cnh tranh ... tin hnh hot ng cnh tranh kinh t, phỏp lut quy nh rừ v gii hn cho phộp ca cỏc hnh vi cnh tranh, quy nh quyn v ngha v ca cỏc ch th tham gia cnh tranh, t ú, khuyn khớch cnh tranh lnh mnh, ngn ... phỏt trin u ban hnh lut cnh tranh iu tit cỏc quan h cnh tranh trong nn kinh t, c bit l chng li cỏc hnh vi cnh tranh khụng lnh mnh v kim soỏt cỏc hnh vi hn ch cnh tranh cng nh mi xu th dn... 5 628 3 Cạnh tranh là một vấn đề quan trọng đối với các doanh nghiệp trên thị trường. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh không chỉ gây thiệt hại cho các doanh nghiệp mà còn thiệt hại cho môi trường kinh doanh tự do của một đất nước. Vì vậy, bài viết sẽ tìm hiểu về một hành vi cạnh tranh không lành mạnh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Dưới góc độ pháp lý, thỏa thuận này là sự thống nhất ý chí từ hai chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Thỏa thuận hạn chế này sẽ có một số đặc điểm sau đây Chủ thể của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được pháp luật quy định phải là các chủ thể độc lập. Sự độc lập này phải về pháp lý tức là được pháp luật công nhận chủ thể này là một tổ chức, một pháp nhân độc lập và có quyền nghĩa vụ độc lập, tự chịu các trách nhiệm pháp lý và về cả việc chủ hoạt động nội bộ. Tức là chủ thể của hành vi này không phải là những người liên quan của nhau theo pháp luật doanh nghiệp; không cùng trong một tập đoàn kinh doanh, không cùng là thành viên của tổng công ty. Nói cách khác, các hoạt động nội bộ giữa các chi nhánh của công ty, giữa các công ty con của một tổng công ty, một tập đoàn kinh tế sẽ không được pháp luật cạnh tranh coi là thỏa thuận bởi về bản chất các chủ thể nói trên không có tính độc lập với nhau về hoạt động không tự chủ trong hoạt động. Thứ hai, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải có sự thống nhất về ý chí giữa các bên tham gia thỏa thuận Nghĩa là có sự sự thống nhất ý chí về việc cùng hành động gây hạn chế cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Các thỏa thuận này thường là kết quả của sự đàm phán, thương lượng giữa các bên tham gia có liên quan đến việc gây hạn chế cạnh tranh trên một thị trường liên quan. Các hành vi này có thể được biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Có thể là việc các bên gián tiếp đạt được một thỏa thuận thỏa thuận ngầm thông qua các nghị quyết, quyết định hay hành động chung của Hiệp hội mà các bên là thành viên; hoặc biểu hiện dưới dạng các cam kết tuân thủ hoặc cam kết đáp ứng yêu cầu do một hoặc một số bên đặt ra. Vì thế có nhiều trường hợp các doanh nghiệp khi bị phạt vi phạm thỏa thuận thì mới nhận ra thỏa thuận của mình là trái pháp luật. Thứ ba, về nội dung Các thỏa thuận hạn chế về cạnh tranh sẽ thường tập trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh nhau như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng và nội dung của hợp đồng. Thực tế, các thỏa thuận đều được tồn tại dưới hình thức các thỏa thuận kinh doanh nên để xem xét phân định thì phải dựa vào nội dung của thỏa thuận trong thực tế có thể gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường hay không. Thứ tư, hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Các thỏa thuận này sẽ dẫn đến làm giảm, sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị trường. Đây là đặc điểm chung của các hành vi hạn chế canh tranh. Pháp luật cạnh tranh với mục đích là bảo vệ, tạo môi trường canh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức phát triển hoạt động thương mại, chính vì lẽ đó, các thỏa thuận nhằm xóa bỏ cạnh tranh trên thị trường gây ảnh hưởng đến các chủ thể không tham gia thoả thuận, lẫn người trực tiếp sử dụng sản phẩm trên thị trường bị hạn chế canh tranh. Như vậy một thỏa thuận có các đặc điểm trên là một thỏa thuận và có thể bị pháp luật cạnh tranh cấm vì đã xâm phạm đến môi trường cạnh tranh lành mạnh và lợi ích của các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường. Có nhiều chủ thể kinh doanh không nhận thức được hành vi của mình là trái với pháp luật cạnh tranh và dẫn đến tình trạng bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi của mình. Chính vì lẽ đó, các chủ thể kinh doanh cần lưu ý về vấn đề này trên thực tế. Câu hỏi thường gặp TRẢ LỜI Theo Luật Sở Hữu Trí Tuệ 2005 quy định như sau 1. TỔ CHỨC, CÁ NHÂN có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hoá do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp. 2. Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó. 3. Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể; đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, tổ chức có quyền đăng ký là tổ chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất, kinh doanh tại địa phương đó; đối với địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam thì việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. 4. Tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hóa, dịch vụ có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó; đối với địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam thì việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. 5. Hai hoặc nhiều tổ chức, cá nhân có quyền cùng đăng ký một nhãn hiệu để trở thành đồng chủ sở hữu với những điều kiện sau đây a Việc sử dụng nhãn hiệu đó phải nhân danh tất cả các đồng chủ sở hữu hoặc sử dụng cho hàng hoá, dịch vụ mà tất cả các đồng chủ sở hữu đều tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh; b Việc sử dụng nhãn hiệu đó không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc của hàng hoá, dịch vụ. 6. Người có quyền đăng ký quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 trên này, kể cả người đã nộp đơn đăng ký có quyền chuyển giao quyền đăng ký cho tổ chức, cá nhân khác dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, để thừa kế hoặc kế thừa theo quy định của pháp luật với điều kiện các tổ chức, cá nhân được chuyển giao phải đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền đăng ký tương ứng. 7. Đối với nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên thì người đại diện hoặc đại lý đó không được phép đăng ký nhãn hiệu nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu, trừ trường hợp có lý do chính đáng. TRẢ LỜI Hiện nay Người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu có thể tự làm hoặc Ủy quyền đăng ký qua Đại Diện Sở Hữu Công Nghiệp Đại diện sở hữu công nghiệp → Giống như Kiểu Công ty Luật A&S Có thể khái quát việc nộp đơn như sau 1. NỘP ĐƠN QUA ĐẠI DIỆN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP Hồ sơ gồm - GIẤY ỦY QUYỀN CHO ĐẠI DIỆN - MẪU ĐƠN 10 MẪU 8X8 CM 2. TỰ NỘP ĐƠN CÁ NHÂN HOẶC CÔNG TY LÀ CHỦ ĐƠN Mẫu nhãn hiệu với kích thước lớn hơn 3×3 cm và nhỏ hơn 8 x8 cm; Danh mục hàng hóa dịch vụ cần đăng ký nhãn hiệu; Tờ khai đăng ký nhãn hiệu. Đối với đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể,nhãn hiệu chứng nhận Giấy phép kinh doanh nếu chủ đơn là Công ty CÁ NHÂN KHÔNG CẦN GIẤY ĐĂNG KÝ KINH DOANH NHÃN HIỆU TẬP THỂ 1. Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể/nhãn hiệu chứng nhận; 2. Bản thuyết minh về tính chất,chất lượng đặc trưng hoặc đặc thù của sản phẩm mang nhãn hiệu nếu nhãn hiệu được đăng ký là nhãn hiệu tập thể dùng cho sản phẩm có tính chất đặc thù hoặc là nhãn hiệu chứng nhận chất lượng của sản phẩm hoặc là nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc địa lý; 3. Bản đồ xác định lãnh thổ nếu nhãn hiệu đăng ký là nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc địa lý của sản phẩm. 4. Mẫu nhãn hiệu với kích thước lớn hơn 3×3 cm và nhỏ hơn 8 x8 cm; 5. Danh mục hàng hóa dịch vụ cần đăng ký nhãn hiệu; 6. Tờ khai đăng ký nhãn hiệu. Đối với đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể,nhãn hiệu chứng nhận Trả lời - Tra cứu thương hiệu độc quyền cơ bản, sơ bộ Trong dạng này, thời gian tra cứu thương hiệu độc quyền sơ bộ chỉ mất 03 đến 05 tiếng để tra cứu. Tuy nhiên, việc tra cứu này không đảm bảo được chính xác thương hiệu có sự trùng lặp, tương tự hay không vì dữ liệu do Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam cung cấp trên trang dữ liệu quốc gia đã được cập nhật trước thời điểm tra cứu 03 tháng, tức là tại thời điểm tra cứu thì các đơn mới nộp trong khoảng 03 tháng trở lại đây là chưa được cập nhật trên dữ liệu quốc gia nên không thể tra cứu chính xác 100%. Link tra cứu miễn phí - Tra cứu thương hiệu độc quyền chi tiết, nâng cao Trong dạng tra cứu này, độ chính xác đạt cao nhất, được tiến hành bởi các chuyên viên, chuyên gia có kinh nghiệm sẽ đảm bảo tỷ lệ đăng ký thương hiệu độc quyền cao nhất, các chuyên viên, chuyên gia sẽ thẩm định và kiểm tra sự trùng lặp, dễ gây nhầm lẫn để có cở sở điều chỉnh lại thương hiệu sao cho phù hợp nhất. LIÊN HỆ A&S LAW FIRM qua hotline +84 972 817 699 PHÍ TRA CỨU CHUYÊN SÂU CHỈ TỪ VNĐ / LẦN TRA CỨU Trả lời CÓ HAI CÁCH NỘP ĐƠN ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU 1. NGƯỜI NỘP ĐƠN TỰ NỘP Bạn có thể nộp đơn trực tiếp hoặc qua đường bưu điện hoặc thông qua đơn vị đại diện sở hữu trí tuệ nộp đơn đăng ký thương hiệu độc quyền tại một trong ba địa chỉ sau - Cục Sở Hữu trí tuệ Việt Nam tại số 384-386, đường Nguyễn Trãi, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. - Văn phòng đại diện Cục Sở Hữu trí tuệ Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng Tầng 3, số 135 đường Minh Mạng, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn. - Văn phòng đại diện Cục Sở Hữu trí tuệ Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh số 17 - 19 Tôn Thất Tùng, Tầng 7, tòa nhà Hà Phan, phường Phạm Ngũ Lão, quận 1. Lưu ý Hai văn phòng đại diện chỉ là đơn vị tiếp nhận đơn đăng ký, còn cơ quan có thẩm quyền xem xét, thẩm định hồ sơ và cấp văn bằng bảo hộ thương hiệu độc quyền chỉ có Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam ở Hà Nội. 2. NỘP ĐƠN THÔNG QUA ĐẠI DIỆN SHCN A&S LAW FIRM LIÊN HỆ A&S LAW FIRM qua hotline +84 972 817 699 PHÍ TRA CỨU CHUYÊN SÂU CHỈ TỪ VNĐ / LẦN TRA CỨU → Trả lời Theo quy định của pháp luật hiện hành, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ xử lý và giải quyết hồ sơ đăng ký thương hiệu độc quyền với thời gian của từng giai đoạn như sau - Giai đoạn tiếp nhận hồ sơ, thẩm định hình thức đơn đăng ký thương hiệu độc quyền dao động trong khoảng 01 tháng đến 03 tháng; - Giai đoạn công bố đơn hợp lệ là 02 tháng kể từ ngày đơn được chấp nhận là đơn hợp lệ; - Giai đoạn đăng công bố lên Công báo A từ 4-6 tháng từ ngày chấp nhận hình thức đơn - Giai đoạn thẩm định nội dung đơn đăng ký thương hiệu độc quyền dao động trong khoảng từ 14 tháng đến 16 tháng; Như vậy, tổng thời gian đăng ký thương hiệu độc quyền từ thời điểm nộp hồ sơ đến khi được cấp văn bằng bảo hộ dao động trong khoảng 24 tháng đến 26 tháng theo quy định của pháp luật. Trả lời THỜI HẠN CÓ HIỆU LỰC CỦA VĂN BẰNG NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM LÀ 10 NĂM VÀ ĐƯỢC GIA HẠN KHÔNG GIỚI HẠN SỐ LẦN CĂN CỨ Khoản 6 Điều 93 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về hiệu lực của văn bằng bảo hộ như sau ” Giấy chứng nhận nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm”. Thời hạn bảo hộ của nhãn hiệu là 10 năm, tuy nhiên chủ sở hữu nhãn hiệu có thể xin gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần 10 năm và có thể được bảo hộ mãi mãi nếu được gia hạn đúng hạn. Trong vòng 06 tháng trước ngày Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hết hiệu lực, chủ sỡ hữu nhãn hiệu phải nộp đơn yêu cầu gia hạn và lệ phí theo quy định cho Cục Sở hữu trí tuệ. Trả lời NHÃN HIỆU CÓ THỂ CHUYỂN NHƯỢNG ĐƯỢC HỒ SƠ CHUYỂN NHƯỢNG GỒM Chuyển nhượng nhãn hiệu cần các giấy tờ Bản gốc của giấy chứng nhận đã đăng ký nhãn hiệu or văn bản bảo hộ; Kèm thêm 2 bản hợp đồng chuyển nhượng đồng thời phải có chữ kỹ từng trang. Mộc đỏ của con dấu " Nếu có "; Thêm vào là giấy ủy quyền từ bên chịu trách nhiệm ký hợp đồng chuyển nhượng / chuyển giao nhãn hiệu theo quy định pháp luật và hợp đồng 2 bên thỏa thuận. Thời gian hoàn tất việc đăng ký Hợp đồng chuyển nhượng/chuyển giao nhãn hiệu là 06 tháng kể từ ngày nộp đơn.

ví dụ về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh